Xưng hô trong gia đình Việt Nam
Gia đình là cái nôi phát triển nhân cách của trẻ. Môi trường gia đình có tầm quan trọng trong việc hình thành giá trị sống lành mạnh và tốt đẹp cho mỗi con người.
Người xưa quan niệm: “Gia đình phải có gia giáo - giáo dục đạo đức, phẩm chất, nhân cách cho con cái; gia lễ - đảm bảo kỷ cương, có thứ bậc, ngôi vị trong gia đình; gia pháp - những phép tắc, luật lệ, khuôn phép của gia đình để giáo dục con trẻ trong gia đình; gia phong - nề nếp, lề thói mà mỗi người trong gia đình phải tuân thủ theo hết sức nghiêm ngặt”. Văn hóa ứng xử trong gia đình được người Việt đề cao và rất coi trọng. Những giá trị đạo đức xã hội của tư tưởng Nho giáo được cha ông răn dạy, chỉ bảo con cái từ thuở mới lọt lòng đến khi trưởng thành được thể hiện rất rõ trong ca dao, tục ngữ. Đó là những bài học ứng xử về hiếu nghĩa, đạo làm con:
“Một lòng thờ mẹ, kính cha.
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Một người không biết yêu thương, quý trọng cha mẹ mình làm sao có thể yêu nước, thương dân được. Mối quan thệ giữa cha mẹ với con cái, con cái đối với cha mẹ đã được ông cha ta nâng lên thành đạo làm cha mẹ, đạo làm con. Từ mối quan hệ chủ đạo này đã hình thành nên đạo thờ ông bà tổ tiên, đạo thờ cha mẹ, góp phần nuôi dưỡng cho con người tình cảm “Uống nước nhớ nguồn".
Trong quan hệ ứng xử, người xưa cũng đặc biệt coi trọng tình nghĩa giữa anh chị em trong một gia đình: “Anh em như thể chân tay”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Em thuận, anh hoà là nhà có phúc”, “Chị ngã em nâng”… Mối liên hệ ruột thịt là mối liên hệ thiêng liêng không thể chia cắt: “Cắt dây bầu dây bí, Chẳng ai cắt dây chị dây em”. Vì lẽ đó, ông cha ta cũng lên án nghiêm khắc những ai không giữ được tình cảm anh em:
“Người dưng có nghĩa thì đãi người dưng
Anh em vô nghĩa thì đừng anh em”…
Đối với quan hệ vợ chồng, sự hoà thuận và tình nghĩa thuỷ chung luôn mang ý nghĩa thiêng liêng, sâu nặng, là mối ràng buộc trách nhiệm cao suốt đời người:
“Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”,
“Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”…
Thời nay, trong gia đình, dù văn hóa ứng xử có thay đổi rất nhiều so với ngày xưa, nhưng những khuôn phép của mỗi gia đình vẫn không thể thiếu được. Ngày nay, trong cơ chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có gia đình. Nhiều chính sách kinh tế – xã hội mới làm cho sản xuất phát triển và mức sống của các gia đình tăng lên rõ rệt. Những điều kiện vật chất bảo đảm cho sự phát triển về năng lực thể chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình, nhất là điều kiện hưởng thụ văn hoá đều được nâng cao. Cùng với cuộc sống ấm no, quan hệ bình đẳng giữa vợ – chồng, cha mẹ – con cái được xác lập và khẳng định. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đã tác động tiêu cực đến gia đình. Các giá trị truyền thống bị thay đổi. Ở nhiều gia đình, người vợ mãi chạy theo lối sống thực dụng đã lãng quên thiên chức làm vợ, làm mẹ, thiếu trách nhiệm với con cái. Những người con do mê mải kiếm tiền đã không coi việc chăm sóc cha mẹ già là nghĩa vụ đạo đức cao quý nữa, thậm chí còn bạc đãi với ông bà, cha mẹ, khiến các cụ lâm vào cảnh cô đơn lúc tuổi già sức yếu. Quan hệ thực dụng, lối sống ích kỷ, chạy theo đồng tiền đã len lỏi vào không ít gia đình. Sự suy thoái văn hoá gia đình kéo theo nhiều nét đẹp mang tính văn hoá trong quan hệ ứng xử bị mai một. Nghĩa vụ đạo đức, sự hy sinh, lòng chung thuỷ, niềm tin lẫn nhau đang bị xói mòn. Do nhận thức chưa đầy đủ, nhiều người lầm tưởng rằng tất cả những cái mới được du nhập từ bên ngoài đều là giá trị, hiện đại, tiến bộ, văn minh trong khi những gì thuộc về quá khứ của dân tộc đều là cũ kỹ, bảo thủ, lạc hậu. Điều này dẫn đến việc tiếp nhận ồ ạt, thiếu chọn lọc những văn hoá ngoại lai, làm xáo trộn nếp sống gia đình, khiến mỗi người không tự xác định được những chuẩn mực trong ứng xử gia đình. Cuộc sống nơi này, nơi khác, chúng ta vẫn phải nghe và chứng kiến nhiều trường hợp quan hệ cha con, anh em, chồng vợ bị sứt mẻ vì tranh giành đất đai, nhà cửa, tiền bạc. Nạn bạo hành trong gia đình và tình trạng trẻ em phạm pháp gia tăng…
Đó là vấn đề quá rộng. Trong khuôn khổ bài này, chỉ thu gọn trong vấn đề xưng hô trong gia đình Việt Nam . Khi có giao tiếp, có trò chuyện với nhau, thì có chuyện xưng hô. Xưng hô là gọi nhau để biết câu nói, câu chuyện đó liên hệ tới người nào.
Trong mọi cuộc giao tiếp, trò chuyện, đều có 3 đối tượng để xưng hô: tự gọi mình là xưng, được quy ước là ngôi thứ nhứt; gọi hai đối tượng khác là hô. Người trực tiếp đối thoại qua lại với ngôi thứ nhứt, được quy ước là ngôi thứ nhì. Hai đối tượng, ngôi thứ nhứt và ngôi thứ nhì, đang trực diện giao tiếp mà nhắc đến, nói đến người khác, thì người khác đó được quy ước là ngôi thứ ba.
Ngôi thứ nhứt là “tôi”; ngôi thứ nhì là “ông”; ngôi thứ ba là “nó”. Nói thông thường theo kiểu người Việt thì tiếng xưng hô dùng cho 3 ngôi đó là: tao, mầy, nó. Số nhiều thì có chúng tôi, chúng bây, chúng nó. Đó là nói tổng quát về xưng hô trong xã hội.
Trong tiếng Việt, lời xưng hô thật phong phú, có lẽ phong phú nhứt thế giới:
Ngôi thứ nhứt có: tôi, ta, tao, tớ, tui, mỗ, anh, em,… chúng tôi, bọn tôi, bọn tao, chúng ông, bọn nầy,…
Ngôi thứ nhì có: mầy, mi, bây, em, cô, nàng, anh, chàng, ông,…chúng mầy, chúng bây, bọn mi, các em, các anh, quân bây,…
Ngôi thứ ba có: nó, hắn, hắn ta, chàng, chàng ta, chàng ấy, nàng, nàng ấy,… chúng nó, bọn hắn, đám kia, đám đó, quân ấy,…
Xưng hô trong gia quyến Việt Nam lại còn phong phú hơn nữa và rất tinh vi, rất phức tạp, đối với người nước ngoài mới học tiếng Việt (vì chưa thấu hiểu cái tinh tuý, lễ nghĩa, tình cảm… của dân tộc Việt). Ngoài những tiếng nêu trên còn có các tiếng vốn là danh từ, mà biến thành đại danh từ xưng hô: anh, chị, em, chàng, thiếp (xưa), con, cháu,… biến đổi khi thì ở ngôi thứ nhứt, khi thì ở ngôi thứ nhì, tuỳ theo từng câu đối thoại. Đặc biệt còn có tiếng mình, ông xã, bà xã… ở ngôi thứ nhì; và đặc biệt tiếng nhà (nhà tôi, nhà em, nhà anh, nhà cháu…) ở ngôi thứ ba.
Xưng hô trong gia quyến người Việt thu gọn trong 3 thế hệ: ông bà nội ngoại, cha mẹ, con cháu. Do tuổi thọ càng lúc càng cao, nhiều gia đình còn sống đủ 4 thế hệ: ông bà cố, ông bà nội ngoại, cha mẹ, con, cháu, cháu chắt. Nhưng thông thường phần đông chỉ còn có 3 thế hệ hiện còn sống chung đụng, gần gũi nhau, nên có những giao tiếp chuyện trò cùng nhau. Xưng hô trong các cuộc trò chuyện nầy có thể phân chia ra như sau:
1/- Xưng hô giữa vợ chồng:
a) Vợ chồng trẻ, trong những năm đầu, chuyện trò với nhau phần lớn dùng cặp chữ anh em để xưng hô. Chồng xưng anh, gọi vợ là em. Ngược lại, vợ xưng em gọi chồng là anh. Tuổi tác không can dự được vào lời xưng hô nầy. Dù tuổi có nhỏ hơn, chồng cũng xưng ở vai trên, anh. Dù lớn tuổi hơn, vợ vẫn xưng ở vai dưới, em. Bây giờ có biết bao nhiêu chuyện đổi thay so với thuở xưa, về quyền hạn trong gia đình, nhưng về ngôi thứ ngôn ngữ xưng hô giữa vợ chồng vẫn bất di bất dịch: anh – em.
Vợ chồng trẻ trong chỗ riêng tư, những lúc thắm đượm tình âu yếm, có khi xưng là anh, là em, nhưng vợ gọi chồng hay chồng gọi vợ bằng 1 tiếng chung là “mình”. Tiếng mình nầy ở ngôi thứ nhì.
- Mình ơi! Em yêu mình lắm!
- Mình, anh cũng yêu mình!
Vợ chồng trẻ ít khi (hay không có) gọi nhau bằng mình trước mặt người thứ ba, nhứt là giữa đám đông. Họ còn nhát.
c) Đến lúc hết thời kỳ vợ chồng son, khi hai người có con để nựng nịu, đôi vợ chồng có cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc, họ có thể xưng hô ngọt lịm, hơn cả thời kỳ dùng cặp chữ anh em. Họ vẫn xưng anh, em, nhưng gọi nhau bằng mình rất tự nhiên, rất bình thường, trước cả bàng quan thiên hạ:
- Mình ơi, lấy giùm em bình sữa cho con mình nhé!
- Anh đang lỡ tay, mình chờ một tí nghe mình?
d) Nhưng trong những lúc cơm chẳng lành canh không ngọt, vợ chồng đổi giọng, không còn xưng anh em nữa, mà lạnh nhạt xưng “tôi”. Chồng xa cách gọi vợ là “cô” (tiếng cô nầy nhẹ thể hơn tiếng cô lần đầu gặp gỡ rất nhiều). Còn vợ xa lạ gọi chồng là “ông”.
- Cô nín đi, đừng lắm lời nhiều chuyện như vậy. Tôi chịu đựng hết nổi rồi đấy!…
- Tôi biết hết rồi! Không có lửa sao có khói? Ông không gì, sao có lời ong tiếng ve xì xầm?
Tệ hại hơn nữa, trong những khi no mất ngon giận mất khôn, vợ chồng Việt Nam cũng có khi đánh mất những tiếng xưng hô ngọt ngào anh, em, mình ơi, mình à,… mà dùng những từ không đẹp để xưng hô với nhau. Họ dùng cặp chữ tao mầy. Cả vợ cũng xưng tao và gọi chồng là mầy. Thậm tệ hơn nữa, chồng xưng là “ông”, vợ xưng là “bà”, họ cùng gọi nhau bằng tiếng “mầy”. Tiếng ông và bà nầy ở ngôi thứ nhứt, với ý trịch thượng!
- Mầy im cái mồm ngay! Không, ông vả cho méo mặt bây giờ!
- Bà không im. Ngon vô đây mà vả. Bà thách mầy đấy!
e) Vợ chồng khi bước vào tuổi đời gọi là sồn sồn lại thay đổi cách xưng hô. Đúng ra họ vẫn giữ tiếng xưng là anh (chồng), em (vợ) hoặc tôi (cho cả 2 người). Tiếng hô thì có nhiều cách đổi: Chồng gọi vợ là bà, vợ gọi chồng là ông. Hai tiếng ông bà ngôi thứ nhì nầy mang vẻ đầm thắm, đứng tuổi hơn là lạnh nhạt, xa cách như trường hợp nêu trên.
Có người gọi vợ là “má nó”, “má mầy”, “mẹ nó”, “bu nó”, “má con Phượng”, “mẹ thằng Tèo”… Vợ gọi chồng là “ba nó”, “ba mầy”, “tía nó”, “ba thằng Tân”, “cha con Xuân”…
- Má nó đi chợ, nhớ mua cho anh xâu bia Heineken nghe.
- Cha con Xuân đi đâu thì đi, trưa nhớ về ăn cơm, em chờ.
“Má con Phượng”, “ba thằng Tân”,… “Phượng”, “Tân” thường là tên đứa con đầu lòng của vợ chồng. Trong gia đình đông con, có khi tên đứa con Út được dùng chỗ nầy. Cũng có khi, đông con, lúc nói người ta nhớ tên đứa nào thì dùng tên đứa đó. Đôi vợ chồng có đông con, còn dùng “ba sắp nhỏ” để gọi người chồng; “má bầy trẻ” để gọi người vợ.
- Tiếc quá! Mấy khi chú đến chơi, mà “ba sắp nhỏ” lại đi vắng…
- Mời chị vô nhà chờ một lát. “Má bầy trẻ” đi chợ về gần tới rồi.
f) Khi có thêm người thứ ba tham dự vào chuyện tiếp xúc với đôi vợ chồng, thì có thêm từ xưng hô ngôi thứ ba dành cho chồng và vợ:
- Bà xã tôi vừa nhắc đến anh chị đây. Sao không thấy ông anh cùng đến?
- Xin lỗi ông bà, ông xã tôi đang có hẹn với người bạn ở xa mới đến…
Từ ông xã chỉ người chồng, bà xã chỉ người vợ trở thành danh tự kép trong kho tàng tiếng Việt. Tôi nghĩ từ bà xã (có nghĩa là vợ) xuất hiện khoảng thập niên 1950. Trước đó, bà xã chỉ có nghĩa là vợ của ông xã (xã trưởng). Thời đó người ta nhắc nhiều đến chuyện tiếu lâm Lý Toét & Xã Xệ. Và có người nghĩ đến chuyện có ông Xã Xệ thì phải có “bà Xã Xệ”, tức bà vợ của một ông tầm thường trong làng xã. Rồi người ta rút 3 tiếng “bà Xã Xệ” gọn lại thành 2 tiếng “bà xã” để chỉ người vợ.
Trong vai trò lời xưng hô, tiếng ông xã, bà xã nếu có chỉ định tĩnh tự đi kèm, thì nó ở ngôi thứ ba:
- Ông xã tôi không có nhà. Anh cần nhắn lại điều gì không?
Khi không có chỉ định tĩnh tự đi kèm, thì nó ở ngôi thứ nhì:
- Bà xã, làm ơn bớt cái miệng lại một tí, anh đang nghe radio!
Trước kia, người ta dùng 3-4 tiếng để chỉ chồng mình, vợ mình, như: anh nhà tôi, ông nhà tôi, ông chồng nhà tôi, ông xã nhà tôi; bà nhà tôi, nội tướng nhà tôi, bà xã nhà tôi… Rồi sau đó, chừng vài mươi năm nay, người ta lại giản lược lại còn 2 tiếng để chỉ chồng mình, vợ mình. Hai tiếng đó là “nhà tôi”:
- Chúng tôi không bao giờ quên anh chị, nhứt là nhà tôi, bà ấy nhắc tới chị luôn.
Hai tiếng “nhà tôi” thật là lững lơ, huyền hoặc.
2/- Xưng hô giữa cha mẹ và con cái:
a) Xưng hô với con trong năm đầu: Con của đôi vợ chồng trẻ từ lúc mới sanh đến khi biết nói, không có dịp sử dụng ngôi thứ nhứt để xưng với cha mẹ. Thời kỳ nầy nó chỉ được gọi ở ngôi thứ nhì và ngôi thứ ba. Cha mẹ là 2 tiếng chỉ định vị trí của đấng sinh thành ra con. Nhưng lại rất ít người bắt con dùng 2 tiếng nầy để gọi mình, mà tập con gọi mình bằng ba (cha) và bằng má (mẹ). Tiếng Việt cũng rất phong phú về những tiếng xưng hô nầy. Tương đương với cặp tiếng xưng hô ba má còn có ba mẹ, bố mẹ, ba vú, tía má, thầy me, thầy đẻ, cậu mợ, thầy bu… (Một số người có Tây học – nhiều hay ít – còn tập tành xưng hô pa-pa/ma-măng hay pa-pa/măng cho ra vẻ ta đây Tây. Bây giờ có mùi Mỹ trong người, lắm vợ chồng gọi nhau là ho-ni, xưng và tập con gọi mình là đế-đi/má-mì hoặc đết/mom cho ra vẻ ta đây Việt kiều Mỹ):
Hầu hết những đứa con được đặt tên thật đẹp, nhưng trong thời kỳ còn bé, phần đông những đứa trẻ bị cha mẹ gọi bằng những tên tục xấu xí, chung chung cho mọi đứa là thằng cu, nhóc tì, cu tí… (trai), con lủng, nhóc bẹp, cái đĩ… (gái). Có nhiều cặp vợ chồng theo nhân dáng khuôn mặt đứa con và ghép thứ của nó vào mà đặt tên tục để gọi, như Cả Vồ (do trán vồ), Hai Xệp (do mũi xệp), Ba Mếu (do miệng hay mếu), Tư Nhăn (do mặt mày thường nhăn nhó quạu quọ)… Không ít chồng vợ gọi con bằng tiếng cưng, cục cưng, cục vàng, hột xoàn… Với những tiếng xưng hô phong phú đó, cha mẹ nựng nịu, trò chuyện một chiều với đứa bé khi nó chưa biết nói:
- Cả Vồ của mẹ, thôi dậy đi, tới giờ bú rồi. Ngoan đi, măng cưng.
- Ho-ni, ho-ni ra xem mụ bà dạy cu tí cười kìa.
b) Xưng hô với con khi chúng đã lớn: Thông thường cha mẹ và con cái dùng các cập xưng hô: ba/má-con, tía/má-con, thầy/đẻ-con…
- Con cứ an tâm ra đi, ba má còn các em để khuây khoả.
- Tía má giữ gìn sức khoẻ, rồi con sẽ quay về.
Những tên tục xấu xí thường bị loại dần, không còn được xưng gọi nữa khi đứa trẻ lớn lên, vì những tiếng gọi thằng cu, con lủng, cái đĩ,… làm chúng xấu hỗ đỏ mặt tía tai. Nhưng những tiếng xưng gọi bé hai, bé ba…, bé sáu, bé bảy… vẫn còn được gọi cho đến lúc đã lớn, thậm chí lúc đã lập gia thất. Những tiếng đôi “bé+thứ” được coi như tên tục của đứa con.
Nhưng cũng có nhiều gia đình, cha mẹ trò chuyện với con cái, trong chỗ không có người ngoài, thường dùng cặp xưng hô tao mầy chất phác, thân mật, nhứt là dân quê miền Nam :
- Chuyện đó tao đã dặn trước rồi mà mầy cứ không để ý tới.
(Cặp xưng hô mầy tao trong ngôn ngữ Việt Nam có 2 ý nghĩa đối nghịch nhau. Bình thường, về hình thức nó có nghĩa xấu, thô tục, quê mùa, cộc cằn… chỉ sử dụng trong những trường hợp xấu, giận hờn, ghét bỏ, miệt thị… Nhưng mặt khác, giữa 2 đối tượng thân thiết xưng hô với nhau thì cặp nầy biểu hiệu sự thân thiết rất mực. Bạn bè chí thân mới xưng hô mầy tao với nhau. Những lúc thật gần gũi, cha mẹ mới dùng mầy tao với con. Tuy nhiên con cái dùng ngược lại với cha mẹ thì không được)
Ở thôn quê miền Nam , con cái thường xưng tôi, tui và gọi cha mẹ bằng tiếng ông bà (ngôi thứ nhì) và ổng bả (ngôi thứ ba):
- Má à, tui nói rồi, tui không ưng chỗ đó mà bà cứ ép tui hoài!
- Ba dẫn tôi đi chợ, ổng còn dẫn tôi vô tiệm cho uống cà-phê nữa. Ổng dặn tôi đừng nói cho bà biết.
Những tiếng tôi, tui, ông, bà, ổng, bả nghe không có vẻ vô lễ, mà chỉ có vẻ chân chất, thật thà, quê mùa mà thôi. Con cái còn gọi cha mẹ bằng tiếng đôi ở ngôi thứ ba, như: ông tía, ông bố, ông già, bà má, bà vú, bà già… Có khi chúng dùng 3 tiếng để nhấn mạnh nữa, như: ông già tía, bà già má… Những tiếng nầy nghe không ngọt dịu, nhưng cũng không phải là vô lễ, thường được nói với ý nghĩa thân mật, trong khi chuyện trò với những người thân thích của gia đình.
- Ông tía dặn kỹ, khi nào có bà má ở nhà, tôi mới được ra ngoài chơi.
- Ông già tía khó gần chết, bà già má cũng đâu có dễ gì! Tôi ớn ổng bả lắm!
Khi con cái đã thành nhân, đỗ đạt, có chức vụ, xưng hô giữa con với cha mẹ vẫn không thay đổi, con-ba/má… Nhưng xưng hô giữa cha mẹ với con có thay đổi. Trong Nam , nơi thôn quê, cha mẹ thường gọi con bằng thứ hoặc bằng thằng+thứ, con+thứ:
- Hai, để đó mẹ. Về nhanh đi. Thằng Ba đang chờ con bên bển đó!
- Thằng Tư tiếp Ba dọn dẹp phòng khách. Con Năm vô bếp giúp Má một tay.
Thời đại điền chủ tư hữu ruộng đất cò bay thẳng cánh ở miền Nam, gia đình giàu có thường xưng gọi con cái mình bằng tiếng cậu (trai), cô (gái) với ý nghĩa là những đứa trẻ quý giá, với mong muốn những tá điền, những khách khứa cũng gọi con mình bằng tiếng “cậu”, “cô” đó.
- Chú chờ đó một chút, cậu Hai cần sai bảo chú một việc, cô Ba cũng muốn gặp chú.
Dân thành thị, trong những nhà trung lưu, nhứt là những nhà quyền quí, còn dùng những chức vụ, ngạch trật… của con ghép theo sau tiếng anh, chị để xưng gọi con cái nhà mình, khi nói chuyện với người ngoài:
- Anh Phán còn kẹt ngoài Sở. Xin ông chờ chút cháu sẽ về tới!
- Anh Đốc-tờ giờ nầy còn ngoài phòng mạch! Gớm! Bà chị thấy đấy, cháu thật là vất vả?
(Anh Phán, Anh Đốc-tờ… dùng để chỉ đứa con. Còn nếu chồng là Phán, là Đốc-tờ…, thì bà vợ thường dùng tiếng ông phía trước, Ông Phán, Ông Đốc-tờ…)
Còn nhiều cách xưng gọi xun xoe về chồng mình, con mình trong những gia đình thượng lưu, nhứt là tại miền Bắc xưa.
3.- Xưng hô giữa ông bà và cháu:
Xưng hô giữa Ông Bà và cháu không có nhiều từ phong phú như trên. Chỉ có ông/bà-cháu và ngược lại cháu-ông/bà. Ông bà thì có ông bà nội, ông bà ngoại, cho nên ông bà và cháu thường thêm tiếng nội ngoại để xác định rõ:
- Thưa, ông gọi cháu vào có việc chi dạy bảo ạ?
- Ông gọi cháu vào là để nhờ cháu ngoái trầu cho bà…
- Năm mới, cháu xin mừng tuổi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Ông bà nội ngoại thường bỏ tiếng ông bà, rút gọn lại còn tiếng nội, ngoại (chung cho ông lẫn bà) để nói chuyện với cháu:
- Năm mới ngoại lì xì cho cháu lấy hên đầu năm.
- Nội lì xì cháu cái nầy và thêm lời căn dặn cháu cố gắng học hành.
Rất nhiều ông bà dùng tiếng con để gọi cháu. Làm vậy để tình ông cháu, bà cháu được thắm thiết đậm đà hơn. Ngược lại cũng rất nhiều cháu dùng tiếng con để xưng với ông bà (ngay cả với chú, bác, cô, dì, cậu… nữa) cũng nhằm biểu hiện tình cảm thân thiết:
- Nghe con học hành giỏi giang, ông bà nội ngoại rất vui. Ông bà mong sao con luôn luôn giữ được mãi như vậy…
- Thưa ông bà nội ngoại, con xin ghi tâm khắc cốt những điều ông bà chỉ dạy.
(Có người khắc khe, hẹp hòi, bị cái nghĩa đen trói buộc, nên cho rằng “cháu xưng con với ông bà là hỗn láo, vì có ý muốn vượt cấp, ngang hàng với cha mẹ mình” Tiếng con dùng xưng hô giữa ông cháu, bà cháu, không còn ở cái nghĩa đen đó nữa, mà nó có ý nghĩa biểu hiện sự thương yêu và kính trọng người trưởng thượng đang đối thoại với mình.
Tiếng con còn được một số người Bắc, nhứt là thuở xa xưa, dùng vượt khỏi cái nghĩa đen, để xưng hô với những người quyền uy, lớn tuổi hay trẻ tuổi hơn người tự xưng con, như tá điền với chủ điền, dân đen với hương chức hội tề xã, với quan trên… Tiếng con nầy lại mang một ý nghĩa khác: quỵ luỵ, hèn hạ…)
Tiếng để xưng hô trong gia đình Việt Nam thật phong phú. Dù cố gắng nhớ lại nhiều cách xưng hô mà tôi từng nghe thấy, nghe đó đây trong cuộc sống và thấy viết trên sách báo, nhưng tôi biết mình không đủ khả năng sưu tập đủ. Mỗi nơi, miền Trung, miền Bắc, còn có những cách xưng hô khác nữa. Mong rằng bài nầy giúp ích được phần nào những con em chúng ta sống và lớn lên ở nước ngoài hiểu được nền văn hoá Việt Nam thật đáng vinh danh. Cách xưng hô trong gia đình Việt Nam thể hiện được nhiều sắc thái văn hoá vững chắc của dân tộc.
Tác giả bài viết: BS. Lê Trung Ngân